Động lực phát triển vùng Đông Nam Bộ - những điểm mới nhìn từ Nghị quyết 24

|

Động lực phát triển vùng Đông Nam Bộ - những điểm mới nhìn từ Nghị quyết 24

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đô;ng Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với nhiều điểm mới khô;ng chỉ thể hiện sự mạch lạc trong đổi mới tư duy, quan điểm, tầm nhìn mà bao gô;̀m cả nội hàm, mục tiêu chiến lược nhằm giải phóng và tái phân bổ lại nguô;̀n lực quốc gia thô;ng qua các cơ chế, chính sách để vùng Đô;ng Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ phát triển kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước.

Theo đánh giá, Đô;ng Nam Bộ là vùng có địa hình rộng, thoáng, thuận lợi cho phát triển nô;ng nghiệp, cô;ng nghiệp và đô; thị, xây dựng hệ thống giao thô;ng vận tải... Đây là vùng kinh tế năng động, sáng tạo, luô;n dẫn đầu cả nước về đổi mới và phát triển, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu ngân sách nhà nước và giải quyết việc làm. Vùng gồm: Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh trực thuộc Trung ương: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu.

Những năm qua cùng với sự phát triển của cả nước, kinh tế-xã hội của Vùng cũng đã có sự phát triển mạnh. Năm 2020, quy mô; tổng sản phẩm toàn vùng (GRDP) theo giá hiện hành gấp 4,9 lần so với năm 2005 và 2,6 lần so với năm 2010, vượt mục tiêu đề ra; đóng góp 32% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), 44,7% tổng thu ngân sách nhà nước. GRDP bình quân đầu người năm 2020 cao nhất cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỉ trọng cô;ng nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh, tỉ trọng khu vực dịch vụ tăng cao; tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt mức cao nhất cả nước.

Đây cũng là vùng có khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, năng động với số lượng doanh nghiệp đứng đầu cả nước; là địa bàn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất, chiếm 41,1% tổng vốn FDI. Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - cô;ng nghệ, đổi mới sáng tạo của vùng và cả nước. Tỉ lệ đô; thị hoá của vùng đạt 67%, diện mạo đô; thị ngày càng hiện đại; tỉ lệ xã đạt chuẩn nô;ng thô;n mới đạt 79,5%, đứng thứ hai trong các vùng của cả nước.

 


Ảnh minh họa: Nguô;̀n internet
 
Khô;ng chỉ phát triển mạnh trong kinh tế, lĩnh vực văn hoá-xã hội của vùng cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều giá trị di sản văn hoá được bảo tồn, phát huy. Cô;ng tác giảm nghèo được triển khai đồng bộ với nhiều kết quả tốt; việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, đổi mới giáo dục và đào tạo đạt nhiều kết quả tích cực; tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên. Tỉ lệ lao động qua đào tạo cao nhất cả nước. Lĩnh vực y tế chuyên sâu có những thành tựu ngang tầm khu vực và thế giới. Cô;ng tác bảo vệ mô;i trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm...

Mặc dù vậy, sự phát triển của vùng Đô;ng Nam Bộ vẫn còn những hạn chế, yếu kém và đối mặt với khô;ng ít khó khăn, thách thức. Cụ thể: Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; một số chỉ tiêu quan trọng chưa đạt như đề ra. Tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại và thấp hơn cả nước; đóng góp vào tổng thu ngân sách nhà nước giảm, tốc độ tăng năng suất lao động thấp, cô;ng tác quy hoạch và triển khai thực hiện các quy hoạch còn chậm. Mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng, nhất là hạ tầng giao thô;ng kết nối nội vùng và liên vùng còn thiếu, yếu, chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến sự phát triển và sức lan toả của vùng.

Khoa học - cô;ng nghệ, đổi mới sáng tạo mặc dù đã được đẩy mạnh song chưa có đóng góp nhiều vào đổi mới mô; hình tăng trưởng; chưa làm chủ được cô;ng nghệ cao, cô;ng nghệ lõi, cô;ng nghệ nguồn trong những ngành chủ lực. Cô;ng nghiệp phát triển thiếu bền vững, chủ yếu là gia cô;ng, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; cô;ng nghiệp hỗ trợ phát triển chậm; phân bố khu chế xuất, khu cô;ng nghiệp chưa hợp lý.

Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tình trạng quá tải ở các trường học, cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, cơ sở khám, chữa bệnh cô;ng lập chậm được khắc phục; năng lực y tế dự phòng và y tế cơ sở còn yếu, chưa đáp ứng các tình huống dịch bệnh bất thường.

Phát triển nhà ở xã hội, nhất là nhà ở cho cô;ng nhân làm việc tại các khu cô;ng nghiệp, khu chế xuất chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ô; nhiễm nguồn nước, khô;ng khí, rác thải chậm được cải thiện. Khoảng cách giàu - nghèo chậm được thu hẹp. Liên kết nội vùng và liên vùng chưa hiệu quả. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp…

Để phát huy vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng, tại Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định vùng Đô;ng Nam Bộ có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Trong đó, đề cập tới một số điểm mới, nổi bật:

Đô;ng Nam Bộ phải là vùng phát triển năng động, trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học - cô;ng nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu cả nước và khu vực Đô;ng Nam Á, giữ vai trò quan trọng trong liên kết phát triển với các vùng kinh tế khác.

Phát triển vùng Đô;ng Nam Bộ phải phù hợp với các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, bảo đảm thống nhất với quy hoạch quốc gia, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đổi mới mô; hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển.

Đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch và quản lý phát triển vùng. Tăng cường đổi mới liên kết vùng trên cơ sở xây dựng cơ chế liên kết và điều phối vùng hiệu lực, hiệu quả, thúc đẩy liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng với các vùng khác và các nước tiểu vùng sô;ng Mê Cô;ng, ASEAN và thế giới.

Xây dựng Đô;ng Nam Bộ trở thành vùng văn minh, hiện đại, hội nhập quốc tế. Phát triển nhanh, bền vững, hài hoà giữa các tiểu vùng, các địa phương trong vùng; các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội gắn với bảo vệ mô;i trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Thu hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các địa phương trong vùng.

Đồng thời, coi trọng cô;ng tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nhất là cô;ng tác xây dựng đội ngũ cán bộ, cô;ng chức, viên chức chuyên nghiệp, trong sạch, tận tụy, năng động, sáng tạo, có tư duy đổi mới và có tầm nhìn chiến lược.

Nghị quyết đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 8 - 8,5%. Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 380 triệu đồng, tương đương 14.500 USD; tỉ trọng khu vực dịch vụ chiếm 41,7% trong GRDP, khu vực cô;ng nghiệp và xây dựng chiếm 45,3% (riêng cô;ng nghiệp chế biến, chế tạo 33%), khu vực nô;ng, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 2,3%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp 10,7%; tỉ trọng kinh tế số trong GRDP khoảng 30 - 35%; tỉ lệ đô; thị hoá đạt khoảng 70 - 75%; 100% số xã đạt chuẩn nô;ng thô;n mới.

Giai đoạn 2021 - 2030, tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 7%; đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 56%; Đến năm 2030, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt khoảng 40 - 45%; tỉ lệ thất nghiệp duy trì ở mức dưới 3%; đạt 32 giường bệnh và 11 bác sĩ trên 10.000 dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 95%.

Tỉ lệ che phủ rừng đạt khoảng 19,6%; tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 100%, nô;ng thô;n là 95%; 100% khu cô;ng nghiệp, khu chế xuất hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn mô;i trường; 95% chất thải rắn sinh hoạt đô; thị được thu gom, xử lý theo quy định; 98% chất thải nguy hại được thu gom, vận chuyển, xử lý theo quy định.

Tầm nhìn đến năm 2045: Đô;ng Nam Bộ trở thành vùng phát triển, có tiềm lực kinh tế mạnh, cơ cấu kinh tế hiện đại; trung tâm khoa học - cô;ng nghệ và đổi mới sáng tạo, cô;ng nghiệp cô;ng nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế thuộc nhóm đầu của khu vực và thế giới; kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ. Phát triển hài hoà giữa kinh tế với văn hoá, xã hội, bảo vệ mô;i trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh; có chất lượng cuộc sống cao, có trình độ y tế, giáo dục thuộc nhóm dẫn đầu Đô;ng Nam Á.

Để đạt được mục tiêu và tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội vùng Đô;ng Nam Bộ, Nghị quyết đưa các giải pháp, nhiệm vụ cụ thể. Trong đó, về kinh tế, đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy khoa học-cô;ng nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm.

Tăng cường kết nối các khu cô;ng nghiệp, khu chế xuất để hình thành các cụm liên kết ngành cô;ng nghiệp. Tập trung thu hút các dự án cô;ng nghiệp quy mô; lớn, cô;ng nghệ cao, có khả năng tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Phát triển vùng trở thành trung tâm dịch vụ của khu vực Đô;ng Nam Á về tài chính, thương mại, du lịch, giao lưu quốc tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại nô;ng nghiệp theo hướng phát triển kinh tế nô;ng nghiệp hiệu quả cao, sinh thái, bền vững. Phát triển mạnh kinh tế biển, dịch vụ hậu cần cảng biển.

Về văn hóa xã hội, tập trung phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá - xã hội tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Tạo chuyển biến mạnh mẽ chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao cô;ng nghệ. Đi đầu trong thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục-đào tạo.

Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tăng cường chăm sóc sức khỏe nhân dân với hệ thống y tế chất lượng, tiếp cận được dịch vụ kỹ thuật cao, mở rộng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế. Tăng cường quản lý và bảo vệ mô;i trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Cùng đó, Nghị quyết cũng xác định rõ các nhiệm vụ về cô;ng tác hoàn thiện thể chế, chính sách và đẩy mạnh phát triển liên kết vùng; phát triển khoa học-cô;ng nghệ, đổi mới sáng tạo và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đô; thị; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả cô;ng tác đối ngoại; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Nhất là đào tạo, rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp...

Có thể thấy, Nghị quyết số 24-NQ/TW đề ra khá đầy đủ, đồng bộ và mới mẻ các giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Nghị quyết đã khô;ng chỉ định vị lại vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của vùng Đô;ng Nam Bộ mà còn thể hiện sự đổi mới cơ chế đột phá, thể chế đặc biệt và có phân cô;ng cho từng địa phương gắn với liên kết giữa các địa phương trong vùng tạo ra hành lang kinh tế, đáp ứng yêu cầu cô;ng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

Với sự nỗ lực và quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết 24, vùng Đô;ng Nam Bộ kỳ vọng tạo bước chuyển biến mới, có tính đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng-an ninh, theo đúng tinh thần: Cả nước vì vùng Đô;ng Nam Bộ; vùng Đô;ng Nam Bộ quyết vươn lên cùng với cả nước và vì cả nước; luô;n là đầu tàu và động lực phát triển mạnh mẽ nhất của cả nước./.
Thu Hòa
Hell Hot Entertainment Link